Bệnh viện thiếu ống tiêm, lọ đựng thuốc, chúng tôi quyết định nấu thủy tinh tại chỗ. Đúng lúc có một đơn vị mới từ Hà Nội vào, tôi hỏi chỉ huy, may mắn tìm được 3 anh lính vốn là thợ thổi thủy tinh. Họ đã cùng chúng tôi xây lò và thu nhặt thủy tinh vỡ khắp nơi về để nấu lại, thổi thành ống tiêm, chai lọ đựng thuốc nước và đã sản xuất ống tiêm đủ dùng trong suốt nhiều năm sau này. Ngày ấy còn thiếu cồn sát trùng. Chúng tôi gặp bà con dân tộc thiểu số trong vùng hỏi xem họ dùng thứ lá gì để gây men nấu rượu. Sau đó, chúng tôi trồng sắn lấy tinh bột phục vụ việc chưng cất cồn. Còn tự tạo được thuốc chữa bệnh nữa. Anh chị em Khoa Dược đi thu gom xương voi trong rừng mang về nấu cao. Mỗi bộ xương voi già cũng nấu được hàng chục cân cao tẩm bổ cho thương binh, bệnh binh. Có một loại củ rừng mà bà con dân tộc thiểu số trong vùng gọi là “bu man”. Họ thái nhỏ, ngâm dưới suối một tuần đem về nấu ăn chống đói, còn bảo “mình no cái bụng, còn ngủ tốt nữa”. Chúng tôi lấy củ bu man sống xát bột, rồi đem phơi khô tán thành thuốc an thần, anh em uống thấy khá hiệu nghiệm”.

Xuất bản tờ nội san chuyên môn 

Dù bận cả việc chuyên môn lẫn quản lý song bác sĩ Lê Cao Đài vẫn nghĩ tới cần có một tờ tạp chí quân y để trao đổi thông tin thiết thực và hiệu quả về phòng, chữa bệnh và điều trị vết thương. Thế rồi được sự đồng ý của Ban Quân y Mặt trận Tây Nguyên, Viện Quân y 211 chủ trì tờ nội san Quân y Tây Nguyên, là nơi trao đổi thông tin, kinh nghiệm về y học ở chiến trường. Ban biên tập gồm các chủ nhiệm khoa và một số cán bộ của Ban Quân y mặt trận. Nội san ra hằng quý, in roneo, mỗi số trên dưới 100 trang, phát hành tới tuyến quân y cấp trung đoàn, tiểu đoàn.

Không có quyết định chính thức, nhưng Viện trưởng Lê Cao Đài là Tổng biên tập; bác sĩ Lê Đức Tu, Chủ nhiệm Khoa Hóa nghiệm là Thư ký tòa soạn. Số nội san Quân y Tây Nguyên đầu tiên ra mắt tháng 11-1967 có thư và lời giới thiệu của Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo, Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên và đồng chí Võ Văn Vinh, Trưởng ban Quân y Mặt trận Tây Nguyên. Số đầu tiên có 8 bài, là những nghiên cứu và kinh nghiệm điều trị cho thương binh, bệnh binh được đúc rút từ thực tế chiến trường. Từ đó, nội san ra đều đặn hằng quý trong nhiều năm, tổng cộng đã phát hành hơn 20 số. Đây là tờ nội san quân y duy nhất của một mặt trận trong thời kỳ chiến tranh.

Cần bổ sung làm rõ thêm nhận định được dẫn ra ở đầu bài viết này của nhà báo phương Tây về việc nghiên cứu chất da cam/dioxin của bác sĩ Lê Cao Đài. Sau ngày nước nhà thống nhất, ông là Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc gia điều tra hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Ủy ban 10-80), một ủy ban đặc biệt của Chính phủ ta điều tra về tác hại lâu dài của chất khai quang mà Mỹ đã thả xuống các cánh rừng miền Nam Việt Nam. Sau hàng chục năm lăn lộn thực tế tìm hiểu thông tin, gặp các nhân chứng và phối hợp với các nhà khoa học trong nước, quốc tế, ông đã có công trình tổng hợp nghiên cứu khá đồ sộ: “Chất da cam trong chiến tranh Việt Nam, tình hình và hậu quả” được xuất bản năm 1999. Công trình đã nêu nhiều bằng chứng, luận cứ khoa học, mang tính thời sự, có sức thuyết phục cao về chất độc da cam/dioxin mà quân đội Mỹ đã gây ra đối với hàng triệu nạn nhân, còn để lại hậu quả nặng nề cho con cháu họ. Bản thân bác sĩ Lê Cao Đài do nhiều năm sống, chiến đấu ở chiến trường cũng bị phơi nhiễm chất độc. Gan, lách, dạ dày… của ông đều bị hủy hoại. Những ngày cuối cùng trên giường bệnh, ông vẫn không ngừng làm việc. Thật xúc động khi nghe người bác sĩ chiến trường ấy yêu cầu: “Hãy mang máy tính vào đây cho tôi tra cứu, bổ sung thông tin, không thể nằm chờ tới khi chết!”.

________________________

Nguồn: https://sknc.qdnd.vn/ky-niem-sau-sac/sang-tao-y-te-giua-chien-truong-503287